Hiển thị các bài đăng có nhãn Ngòi bút Chi bảo. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Ngòi bút Chi bảo. Hiển thị tất cả bài đăng

CHÚNG TÔI Ở LẠI


Ngày 16/4/1975, nhà tôi đưa tôi ra sân bay Tân Sơn Nhất theo diện di tản của công dân và gia đình thuộc các sứ quán ngoại giao. Ngồi từ phòng chờ, ngắm nhìn trời chiều Sài Gòn, tôi tự hỏi, đất nước thôi không còn chiến tranh, một nửa bên kia sông Bến Hải mình vẫn chưa hề biết tới, sao không ở lại để nhìn thấy, để đặt chân một lần ra ngoài ấy. Mình là nghệ sĩ cải lương, khán giả của mình là ở đây, sao lại phải rời bỏ đất nước mà đi...
Tôi lặng lẽ quay ra và về lại con đường quen thuộc. Từ xa, tôi đã nhìn thấy nóc nhà mình. 

Tối 30/4, Sài Gòn không ngủ. Tối 1/5, có một người lạ ghé thăm nhà. Sau câu chuyện lịch sự và ân cần, ông để lại cho tôi số điện thoại cùng lời bộc bạch: các chị yên tâm ở lại, cách mạng sẽ bảo vệ các chị. Sau này, trong một lần ở Hải Phòng, tôi gặp lại ông, chính xác thì ông bước tới giới thiệu và nhắc chuyện cũ. 
Một trăm năm - cải lương đã nương mình trong số phận và bước đi của dân tộc.
60 năm làm nghề, tôi lại náu mình trong cải lương để nhận lấy những giá trị cao đẹp nhất mà chỉ khi là tư cách một nghệ sĩ, một công dân, tôi mới hiểu trọn vẹn và sống đầy đủ ý nghĩa. 
NSND Bạch Tuyết
Cho đến một ngày không lâu sau sự ra đi lẫm liệt của chị Thanh Nga, ông Dương Đình Thảo và ông Lê Duy Hạnh đã đến nhà tôi và mời tôi trở lại sân khấu. Tôi tin cậy nhận lời. Đêm đầu tiên công diễn Thái hậu Dương Vân Nga (soạn giả Hoa Phượng), tôi về nhà giữa bao cảm xúc không thể tả và nhận được điện thoại của nghệ sĩ Hùng Cường, anh nói rất ngắn, anh mừng cho em... Rồi thôi. 
Năm 1979, trước ngày cùng Thái hậu Dương Vân Nga ra công diễn các tỉnh phía Bắc, đạo diễn Lưu Chi Lăng nháy mắt tinh nghịch bảo tôi, bây giờ tớ sẽ đưa các cậu ra thủ đô, đến với khán giả cả nước nhé! 
Đêm ấy, giữa không gian sang trọng của Nhà hát Lớn Hà Nội, có một hàng khán giả đặc biệt, đó là những chiến sĩ vừa lập công lớn từ các tỉnh biên giới phía Bắc trở về, họ hầu hết còn rất trẻ. Tôi - trong vai thái hậu Dương Vân Nga, từ ngai vàng bước ra sảnh chầu, đi giữa hai hàng khanh tướng đã cất lời: “Lê Hoàn, mới vừa đây khanh chào hỏi Nguyễn Lưu, Trần Đệ, trong khi ta và ba quân lơ là với họ, riêng khanh, lại nhìn vào dân dã, tôn trọng những người chiến sĩ vô danh ngang với các bậc đại công... thần[vọng cổ]”. Những chữ chuẩn bị xuống hò cuối cùng, tôi quay hẳn người và dang thẳng cánh tay về phía hàng ghế đặc biệt ấy, hơn cả lời tri ân, hơn cả niềm tự hào quốc dân ở một nghệ sĩ. Cả khán phòng đồng loạt đứng lên và chìm trong tiếng vỗ tay không dứt. 
Đó là một khoảnh khắc thiêng liêng trong đời làm nghệ thuật của tôi. 
Cũng trong đêm ấy, khi bà thái hậu dõng dạc tuyên cáo: “Nói cho bọn giặc Tống biết rằng, kẻ vay máu xương sẽ phải trả bằng xương máu, ai thích hỏi giáo gươm sẽ được trả lời bằng gươm giáo”; đâu đó ở hàng ghế của đoàn ngoại giao Trung Quốc, có một vài tiếng lập cập bỏ ghế, đứng dậy rời khỏi khán phòng. 

Năm 1984, trên sàn tập vở Đời cô Lựu (soạn giả Trần Hữu Trang), tôi vào vai Lựu, một vai diễn kinh điển của thầy tôi - NSND Phùng Há, sau nhiều ngày vỡ hoang, thoại kịch, xây dựng đường dây kịch bản âm nhạc... má Bảy đột nhiên nói với đạo diễn Huỳnh Nga và tôi, má muốn thay đổi cái kết. Tôi chưa hiểu ý má. Bà nói chậm rãi, như thể bà đã nghiền ngẫm kỹ từ lâu - Ông Trần Hữu Trang viết tuồng này là để chống Tây mà Tây vẫn phải cho diễn nên cái kết bắt buộc cô Lựu phải vào chùa. Nay Tây Mỹ gì cũng không còn, nước mình độc lập, sao lại bắt Lựu vào chùa, sao lại để cô Lựu cúi đầu. Nước mất thì dân chịu cúi đầu. Nay có nước rồi thì dân phải ngẩng cao đầu mà sống chứ...

Đó là suy nghĩ, là thiết kế đường dây để mạn phép soạn giả Trần Hữu Trang thay đổi một tình tiết kết tuồng Đời cô Lựu của thầy tôi; hơn thế là đổi thay một tư thế cho nhân vật, một tư cách công dân của người nghệ sĩ mà chỉ có bà - người sinh ra đúng vào ngày 30/4 - đã chọn cho mình và một thế hệ học trò của mình cái tư cách nghệ sĩ đáng kính. 
Năm 1992, tôi về nước trong kỳ nghỉ hè, gặp đạo diễn Nguyễn Hồng Phúc, ngồi trò chuyện cùng NSND - họa sĩ Lương Đống, để cuối cùng anh em gặp nhau ở Diễn kịch một mình của tác giả Lê Duy Hạnh. Tôi nhớ, giữa phòng khách của biệt thự ở đường Phạm Ngọc Thạch, tôi diễn ngay trên mặt bàn đá có đường kính 2m, diễn trước những khán giả đầu tiên của vở kịch một người này như Trịnh Công Sơn, họa sĩ Chóe, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, thầy Lê Trí Viễn, Lê Tiến Dũng...

Những lời thoại, ở thời điểm ấy, mang sức nặng ngàn cân: “Những ngày đó, tình dân nghĩa chúa sao mà cao đẹp quá. Còn bây giờ, lẽ nào vinh hoa phú quý đã che mờ hết những ngày gian khổ năm xưa. Trước kia, trong cuộc chiến đấu một mất một còn để giữ gìn đất nước, chúa thượng còn nằm gai nếm mật với dân, chấp nhận hy sinh gian khổ về mình, nên muôn dân dù mất mát, đau thương chết chóc, đói nghèo vẫn bền gan vững chí. Giờ đây chúa thượng thích ăn sung mặc sướng, thích lời ngon ngọt êm tai, trong khi dân vẫn còn đang chịu hàm oan, bất công, lầm than, khổ ải...”.
Những lời gan ruột ấy đâu phải chỉ viết để “mua vui” cho vài trống canh, nó thức tỉnh bên ngoài tấm màn sân khấu về vận nước, về lòng dân. Như trong Bình Tây Đại Nguyên Soái, thầy tôi - NSND Nguyễn Thành Châu đã viết: “Ta đánh giặc không phải vì vua mà giữ nước. Nước của dân, ta giữ nước là vì dân. Trong chiêm bao Đức Quốc Tổ đã ân cần, bảo phải đánh, đánh mới còn, dân khỏi phải kiếp trâu cày ngựa cỡi...”. 
Tất cả đều là sự lựa chọn, lựa chọn một hướng đi và cách sinh tồn, lựa chọn tư thế và cũng là tư cách người nghệ sĩ. Sự ở lại - sau 43 năm, đã không còn định vị ở một không gian nhất định, là Sài Gòn; mà trước hay sau, chỉ có một nơi chốn để bạn dù có ra đi hay ở lại, hay trở về rồi lại ra đi thì bạn mãi mãi thuộc về, là của nơi ấy, nơi thấm đẫm tình dân tộc, vời vợi chuyện nước non... 
 NSND Bạch Tuyết


TƯỞNG NHỚ NGHỆ SĨ ÚT BẠCH LAN: KHUẤT XA RỒI… MỘT NIỀM VUI NHỎ



Giọng ca của một thời tuổi trẻ tươi đẹp đã vĩnh viễn ra đi. Một tên tuổi lớn của cải lương tuồng cổ vừa yên nghỉ. Ngoài kia, một nghệ sĩ, một diễn viên hài đã tắt nụ cười. Trong này, một danh ca, một sầu nữ thôi không còn phiền muộn…

 
Tôi ngơ ngác giữa những ngày mưa tháng gió. Ở cái tuổi đã an nhiên dọn cho mình một chuyến lưu diễn xa, vậy mà sáng ra, ngước mắt nhìn trời, vẫn quay quắt, vẫn khó tin, vẫn không dễ chấp nhận những cuộc giã từ, những trò chơi sinh tử.

VĨNH BIỆT NGHỆ SĨ NHÂN DÂN THANH TÒNG: MỘT VÌ SAO ĐÃ LẶN…



Nghệ sĩ tồn tại bằng tác phẩm, hẳn nhiên là vậy, họ hiện hữu muôn đời bằng sự sáng tạo trên mỗi thước phim, vai diễn, ca khúc… Nhưng một ngày, mất đi một sự hiện diện, hình kia đã thôi không còn đổ bóng, dẫu trăm ngàn tác phẩm còn lưu danh, vẫn cứ thấy mất mát, hụt hẫng, đau đớn đến vô cùng.


NSND Thanh Tòng đã khiến bao trái tim người thân, đồng nghiệp và công chúng nghẹn ngào, thảng thốt như thế. Hình như Chuông vàng Vọng cổ đang vào mùa, xa hơn, giải Trần Hữu Trang, giải Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền… lẽ nào, đã vắng bóng ông thật sự, ở cả vai trò giám khảo, cố vấn nghệ thuật hay phụ diễn cho lớp nghệ sĩ cháu con.

ĐÂY, THÀNH PHỐ TÔI YÊU: ĐẤT NÀY ĐÃ HÓA LINH HỒN




 Sài Gòn – TP.HCM hiện hữu như hơi thở, như con đường, như phố xá, bạn chìm đắm trong nó, bạn thụ hưởng mọi thứ thuộc về nó, bạn mặc nhiên như thuộc về nó…

HỒN THIÊNG QUYỆN KHÓI TRẦM HƯƠNG …



Nghệ thuật góp phần thanh lộc tâm hồn con người, để con người sống tốt hơn, đẹp hơn, có ích hơn. Nghệ thuật cũng góp phần hun đúc tinh thần yêu nước, tinh thần sẵn sàng ra trận để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, với người nghệ sĩ đó là vinh quang tột bậc. 

1. Thời chiến tranh, những gánh hát cải lương trôi nổi bềnh bồng theo dòng sống vui khổ, hoạn nạn, bất an, chết chóc, đói nghèo … Cứ tưởng như trong những tháng ngày gian nan đó cái gì cũng vừa vừa phải phải, phiên phiến thôi, nhưng làm sao có thể hình dung đám trẻ chúng tôi được học nghề hết sức chu đáo từ những bậc nghệ nhân yêu nước với nhân cách cao vợi, âm thầm lặng lẽ theo dõi chúng tôi trong cuộc sống. Không chỉ học nghề mà quan trọng hơn, giá trị hơn gấp ngàn lần, đó là chúng tôi được học cách ăn ở, cách hành xử, cách sống của “người Việt tử tế” hình thành bao đời, từ các bậc thầy Nguyễn Thành Châu (NSND Năm Châu), Má Bảy Phùng Há (NSND Phùng Há), Cô Hai Kim Cúc, soạn giả Điêu Huyền, đạo diễn Tiêu Xái, nhà báo Thanh Tâm – Trần Tấn Quốc (người chủ xuớng giải thưởng Thanh Tâm). Và còn bao nhiêu con người tài hoa, tốt đẹp chịu thương chịu khó cầm tay dẫn dắt chúng tôi, quan sát, theo dõi những tiến bộ trong nghề, trên sân khấu cũng như cách cư xử giữa các đồng nghiệp trong hậu trường, với công chúng khán giả. Niềm hạnh phúc được quan tâm, dạy dỗ sâu sắt của các bậc tiền bối khiến chúng tôi háo hức, phấn khởi khi được cổ vũ, khi thành công cũng như lo lắng, ưu tư khi phát hiện những màng diễn mình còn khiếm khuyết.

CẢM ƠN SÀI GÒN – TP HỒ CHÍ MINH



Trước những ngày tháng Tư năm 1975, nhiều chính biến bất ổn, đoàn hát, rạp hát dạt về, im ỉm, nghệ sĩ chúng tôi hầu như đã vô hình chung cất hết “rôn” tuồng. Tôi, giữa những ngổn ngang, lại sống trong cảm giác hồi hộp, rộn ràng vì đang sắp được làm mẹ. Bao khát khao, tìm kiếm đều vô vọng, nay bất ngờ hé mầm ngay giữa thời điểm bề bộn, dù thế, tôi chẳng mảy may. Tôi chờ đợi cái thời khắc có ý nghĩa nhất trong đời mình, trong sự tồn tại cao cả không phải chỉ cho mình. 

 
Và ngày 30/4/1975 đã đến.

NHỮNG CON ĐƯỜNG



Chẳng biết nghiệp ca cầm có vận sớm vào mình hay không mà những khoảnh khắc vui buồn trong đời tôi đều đọng lại trên những nẻo đường vạn dặm. Và cũng chẳng biết tôi có được diễm phúc như thầy tôi – NSND Phùng Há – giây phút nằm xuống, bà thiêm thiếp trên chuyến xe về lại chùa Nghệ sĩ, như thể một chuyến lưu diễn đời người …- NSND BẠCH TUYẾT 

1. 8 giờ tối, mồng 6 tết, gió xuân lành lạnh. Bàn chân, ngón chân của đứa con gái tám tuổi đầu cứ bám chặt dưới mặt đường, hổn hểnh chạy theo cái bóng chị Hai, cạnh bên là thằng con bà Sáu nhà hàng xóm. Nó không buồn giận tôi bởi cú song phi trước đó mấy phút, hình như nó biết điều gì đang chờ đợi hai chị em tôi nên cứ lầm lũi chạy theo sau.

THẾ THÔI...



Một đêm trong hàng ngàn đêm trình diễn vở Đời cô Lựu, đã đến giờ mở cửa, tôi tò mò hé bức màn, những vị khán giả cầm tấm vé hạng A thong thả bước vào, họ tiến về dãy ghế đầu tiên. Thoáng chốc, sau gần ba giờ đồng hồ, vãn tuồng, màn khép, tôi lại nhìn thấy những con người ban nãy tiến vào rạp hát đầu tiên, nay thành người rời đi sau cùng. Khán phòng thênh thang dưới kia, ai cũng cố chen chân để vào thì nay lại xô đẩy nhau để bước ra. 


BƯỚC TỚI VÀ NGOẢNH LẠI



1. Đèn vụt tắt. Tia sáng hiếm hoi hắt ra từ chiếc đèn pin mini dẫn tôi lách qua dãy màn nhung màu đen thẫm. Bóng đêm đặc quách. Âm nhạc trỗi lên, bao trùm cả bốn mặt sân sấu. “…Ai chết, không lẽ là Người? Nhưng nếu không phải là Người thì ai? Đúng là Người rồi…Đinh lang!…” (Vở Hoàng hậu của hai vua - Lê Duy Hanh). 

 
Cánh màn kéo vụt. Bóng bà thái hậu lặng trang giữa chiếc bục tròn. Hai chiếc đỉnh đồng tượng trưng cho hai triều đại Đinh – Lê lơ lửng… Chiếc khăn tang trên vai người thiếu phụ bỗng hóa thành gánh nặng giang san. 

NỢ NHÂN SINH



Cả một đời nặng nợ nhân sinh, nợ cũ chưa kịp trả vay thêm nợ mới. Những món nợ khiến lòng ta thêm trong trẻo, thêm yêu thương, thêm sức sống … 

 
1. Năm 2006, sang thăm con, dẫn Val ( tên thân mật của Valery Bauduin Nguyễn Bảo Giang ) đi ăn phổ. Giữa câu chuyện về bên nhà, về cải lương, tôi hỏi con kế hoạch làm bố. Val nói nửa bâng quơ nữa nghiêm nghị, con phải chuẩn bị mọi thứ để khi nào sinh con, Caroline phải nghỉ hẳn ở nhà với con của con… Hai năm sau, 2008, đúng ngày Quốc Khánh Việt Nam, cháu nội Brandy của tôi chào đời, con dâu tôi tới nay vẫn đang thực hiện đúng “ cam kết “ với chồng là ở nhà chăm con. Mọi công việc, dự định của người mẹ trẻ này đều gác lại. Hình như con trai tôi đã nghĩ đúng, làm đúng… Chợt buồn bì tôi – một người mẹ, đã nợ con trai mình một tuổi thơ không trọn vẹn.

VĨNH BIỆT NGHỆ SĨ KIM NGỌC – KHÓC CƯỜI CHỐN NHÂN GIAN…


 
Chiều ngày 17/1/2011, tôi ngồi chuốt lại những trích đoạn cho các em trong lớp trung cấp cải lương, đến cảnh Nguyệt Nga gặp Lục Ông trong trích đoạn Kiều Nguyệt Nga, chỉ mới mấy tiếng đờn rao, cô bé đảm nhận vai Kim Liên nói lối “Bởi vậy nên lòng của con nè, lúc nào con cũng muốn thấy lão ông vui, dù chỉ vui trong khoảnh khắc…”, tôi đã không thể ngăn được nước mắt, quay quắt thương tiếc người bạn diễn tài hoa Kim Ngọc vừa bất chợt nằm xuống. Vọng lại trong tôi là chất giọng thánh thót, ngọt ngào của nàng Kim Liên thuở nào: “…Lục công tử không may lâm vòng bất trắc đến mệnh chung để cha già quạnh quẽ cô đơn, mòn mỏi với thời gian lấp thảm chôn… sầu”… 

Đây cũng là câu vọng cổ mà Kim Ngọc vừa ca theo lời yêu cầu của khán giả trong suất diễn cuối cùng của đời ca kỹ. Là thế, có bôn ba trăm nẻo với làng hài thì rốt cùng, Kim Ngọc vẫn là đứa con cưng của cải lương. Khán giả có cười ngả nghiêng với Kim Ngọc đó thì ngay lập tức, họ vẫn muốn được nghe lại một lần Kim Ngọc cất giọng ca. Hình như, cả Ngọc Giàu, Hồng Nga và Kim Ngọc, khóc – cười chẳng qua là vui trò thế sự, cái lưu lại chốn nhân gian mãi mãi là giọng ca bất tuyệt, không lẫn vào ai; không ai thay thế…

TÔI ĐI DẠY HỌC



Có công văn mời dạy kỹ thuật biểu diễn cho các bạn sinh viên cải lương. Suy nghĩ cái đã. Nếu là giám khảo thì hẳn là từ chối luôn rồi. Ở thời buổi này, hiếm có công việc nào ấm ớ bằng. Nào ban ban bệ bệ, tên tuổi lẫy lừng, thí sinh ca hát rần rần, kết cuộc trông chờ vào tổng số tin nhắn bầu chọn. Giám khảo chẳng khác gì…cái đĩa hát chưa lên dây thiều, chẳng thế, bạn tôi, tác giả Lê Duy Hạnh, khi được HTV vời làm chánh chủ khảo cuộc thi Chuông vàng vọng cổ đã dứt khoác không có vụ lấy tin nhắn làm quyết định. Ca thiệt, hát thiệt sao không khen, không góp ý bằng lời thiệt mà cứ nhoay nhoáy ngón tay?

VĨNH BIỆT SOẠN GIẢ NHỊ KIỀU – ĐÃ TRỌN BẢN TÌNH CA



 
Hơn một năm trước, NS tài hoa Tám Vân ra đi. Nhìn má Tám – tức soạn giả Nhị Kiều lặng lẽ, trơ trọi, không ai khỏi xót xa khi dự cảm về những tháng ngày “mồ côi” sắp tới của người ở lại. Ngọn đèn trước gió vốn đã hiu hắt, nay càng thêm lay lắt bởi “…Đã thề sống chết bên nhau. Sao anh lại vội vàng đi trước? Từ đây trên nẻo đường xuôi ngược. Không có anh, tôi như cây lẻ bạn giữa trời đông…” (Nhị Kiều khóc Tám Vân – 2009). 

LÃNG TỬ THANH SANG



Những năm 1961, khi đoàn Ngọc Kiều của hai nghệ sĩ Hoàng Kinh - Ngọc Đán lưu diễn dài ngày ở Long Đất, Long Hải, Bà Rịa, một trong nhiều đêm đoàn công diễn vở Chiều đông gió lạnh về, kép chính bất ngờ bị bệnh, đoàn cuống cuồng kiếm người thay thế. May thay có chàng trai trẻ, ngư dân Nguyễn Văn Thu vừa tập tễnh vô đoàn được tiến cử. 



Mê cải lương, lẩm nhẩm ca theo riết mà thuộc tuồng, cộng với không khí khán giả quê nhà, Nguyễn Văn Thu đã đảm nhận vai diễn thành công ngoài tưởng tượng. Cũng từ đêm hát bất đắc dĩ đó, nghệ danh Thanh Sang do ông bầu Hoàng Kinh đặt cho anh đã chào đời…  

"HOÀNG ĐẾ ĐĨA NHỰA" TẤN TÀI




Anh sinh ra từ dòng kênh Thoại Hà, cất tiếng khóc chào đời giữa lòng núi Sập - trái núi lớn nhất nằm trong cụm núi Sập thuộc huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, có dáng hình như con thỏ, trải dài theo những cánh đồng bát ngát… Núi không cao, sông không sâu nhưng đủ dưỡng nuôi cho anh một chất giọng ngọt ngào, nồng ấm, nhẹ tênh… Anh là nghệ sĩ (NS) Tấn Tài - "Hoàng đế đĩa nhựa" của sân khấu ca kịch cải lương.

"NGỌN SÓNG THẦN" HÙNG CƯỜNG



Hơn 10 năm trước, sau thành công của những công trình nghệ thuật thể nghiệm - độc diễn như Diễn kịch một mình, Hoàng hậu của hai vua, Độc thoại đêm… một ký giả kịch trường đã hỏi tôi: “Vì sao Bạch Tuyết chọn cuộc chơi độc diễn này?”.  

ĐỆ NHẤT DANH CA ÚT TRÀ ÔN



Một trăm năm nghệ thuật ca kịch cải lương đã ghi dấu những giọng ca lẫy lừng, có một không hai: Út Trà Ôn, Hữu Phước, Hùng Cường, Tấn Tài, Thanh Sang, Minh Phụng, Minh Vương, Thanh Tuấn, Tuấn Thanh… Tài năng nghệ thuật đã đưa họ trở thành những “tượng đài” không chỉ trong lòng công chúng ái mộ mà cả những đồng nghiệp nhiều thế hệ. 

 

MỘT MÌNH MUÔN NGƯỜI

1. Thật lạ. Ngồi ở nhà một mình buồn, í ới gọi nhau ra quán cà phê, nhưng bao giờ cũng dặn với: “Nhớ kiếm chỗ nào yên tĩnh chút nhen!”. Ngay khi đi tìm sự lao xao, bạn lại khắc khoải một cõi riêng cho mình. Cuộc “rượt đuổi” cảm xúc này, tận cùng lại là hạnh phúc – thứ hạnh phúc bạn không phải vay mượn; với đời làm nghệ thuật của tôi, Một mình lại là nhân vật thủy chung nhất mà cũng mãnh liệt nhất. 

NĂM MƯƠI LĂM NĂM, LẠI MỒ CÔI TÌNH MẸ …




Cũng là đêm, giụi mắt đi vào giấc ngủ thì có tiếng kêu – ngày xưa, lời nhắn – hôm nay, “Má mày bị xe đụng, má tao biểu về kêu hai chị em mày vô nhà thương liền kìa…”; “Má Bảy mất rồi Cô Ba ơi…”. Khoảng cách chừng 55 năm, quá nữa đời người, ấy vậy mà gần vô đỗi, sự hụt hẫng tợ như mới hôm qua. Ngẩng đầu, mấy sợi tóc điểm bạc mồ côi. Cúi nhìn, những giọt nước mắt thấm vào lòng đất côi cút. Không biết nỗi đau này là của hôm qua hay ngày nay, chỉ có sự rời xa những con người mình yêu thương cứ nối dài, không ngưng nghỉ.. 

NSND PHÙNG HÁ: RỜI CHỐN NHÂN GIAN NHƯ TRÊN ĐƯỜNG TRỞ VỀ



Những dịp hiếm hoi, khi tôi gác lại mọi công việc đón bà qua nhà hoặc chạy lên chùa Nghệ sĩ, hai thầy trò cười đùa rồi sắm vai những tuồng xưa vở cũ. Thầy là Lữ Bố uy dũng, trò là Điêu Thuyền lả lướt; thầy là Võ Minh Thành, trò là cô Lựu… cả hai tung tung hứng hứng. Bà điệu nghệ và lịch lãm lạ thường, không chỉ trong điệu bộ, dáng vẻ mà cả ánh mắt, bờ vai. 

 
Trừ vai Nữ trạng sư trong video Đoạn tuyệt, tôi và bà chưa một lần cùng xuất hiện trên sàn diễn vì khi tôi vào nghề thì bà đã là nghệ sĩ bậc thầy, chuyên chỉ đạo nghệ thuật và đảm nhận công việc truyền nghề cho các đoàn hát lớn.