Ngày 16/4/1975, nhà tôi đưa tôi ra sân bay Tân Sơn Nhất theo diện di tản
của công dân và gia đình thuộc các sứ quán ngoại giao. Ngồi từ phòng chờ, ngắm
nhìn trời chiều Sài Gòn, tôi tự hỏi, đất nước thôi không còn chiến tranh, một
nửa bên kia sông Bến Hải mình vẫn chưa hề biết tới, sao không ở lại để nhìn
thấy, để đặt chân một lần ra ngoài ấy. Mình là nghệ sĩ cải lương, khán giả của
mình là ở đây, sao lại phải rời bỏ đất nước mà đi...
Tôi lặng lẽ quay ra và về lại con
đường quen thuộc. Từ xa, tôi đã nhìn thấy nóc nhà mình.
Tối 30/4, Sài Gòn không ngủ. Tối
1/5, có một người lạ ghé thăm nhà. Sau câu chuyện lịch sự và ân cần, ông để lại
cho tôi số điện thoại cùng lời bộc bạch: các chị yên tâm ở lại, cách mạng sẽ
bảo vệ các chị. Sau này, trong một lần ở Hải Phòng, tôi gặp lại ông, chính xác
thì ông bước tới giới thiệu và nhắc chuyện cũ.
Một trăm năm - cải lương đã nương mình trong số phận và
bước đi của dân tộc.
60 năm làm nghề, tôi lại náu mình trong cải lương để nhận
lấy những giá trị cao đẹp nhất mà chỉ khi là tư cách một nghệ sĩ, một công
dân, tôi mới hiểu trọn vẹn và sống đầy đủ ý nghĩa.
NSND Bạch Tuyết
|
Cho đến một ngày không lâu sau sự ra
đi lẫm liệt của chị Thanh Nga, ông Dương Đình Thảo và ông Lê Duy Hạnh đã đến
nhà tôi và mời tôi trở lại sân khấu. Tôi tin cậy nhận lời. Đêm đầu tiên công
diễn Thái hậu Dương Vân Nga (soạn giả Hoa Phượng), tôi về nhà
giữa bao cảm xúc không thể tả và nhận được điện thoại của nghệ sĩ Hùng Cường,
anh nói rất ngắn, anh mừng cho em... Rồi thôi.
Năm 1979, trước ngày cùng Thái hậu Dương Vân Nga ra
công diễn các tỉnh phía Bắc, đạo diễn Lưu Chi Lăng nháy mắt tinh nghịch bảo
tôi, bây giờ tớ sẽ đưa các cậu ra thủ đô, đến với khán giả cả nước nhé!
Đêm ấy, giữa không gian sang trọng
của Nhà hát Lớn Hà Nội, có một hàng khán giả đặc biệt, đó là những chiến sĩ vừa
lập công lớn từ các tỉnh biên giới phía Bắc trở về, họ hầu hết còn rất trẻ. Tôi
- trong vai thái hậu Dương Vân Nga, từ ngai vàng bước ra sảnh chầu, đi giữa hai
hàng khanh tướng đã cất lời: “Lê Hoàn, mới vừa đây khanh chào hỏi Nguyễn
Lưu, Trần Đệ, trong khi ta và ba quân lơ là với họ, riêng khanh, lại nhìn vào
dân dã, tôn trọng những người chiến sĩ vô danh ngang với các bậc đại công...
thần[vọng cổ]”. Những chữ chuẩn bị xuống hò cuối cùng, tôi quay hẳn người
và dang thẳng cánh tay về phía hàng ghế đặc biệt ấy, hơn cả lời tri ân, hơn cả
niềm tự hào quốc dân ở một nghệ sĩ. Cả khán phòng đồng loạt đứng lên và chìm
trong tiếng vỗ tay không dứt.
Đó là một khoảnh khắc thiêng liêng
trong đời làm nghệ thuật của tôi.
Cũng trong đêm ấy, khi bà thái hậu
dõng dạc tuyên cáo: “Nói cho bọn giặc Tống biết rằng, kẻ vay máu xương sẽ
phải trả bằng xương máu, ai thích hỏi giáo gươm sẽ được trả lời bằng gươm giáo”;
đâu đó ở hàng ghế của đoàn ngoại giao Trung Quốc, có một vài tiếng lập cập bỏ
ghế, đứng dậy rời khỏi khán phòng.
Năm 1984, trên sàn tập vở Đời cô Lựu (soạn giả Trần
Hữu Trang), tôi vào vai Lựu, một vai diễn kinh điển của thầy tôi - NSND Phùng
Há, sau nhiều ngày vỡ hoang, thoại kịch, xây dựng đường dây kịch bản âm nhạc...
má Bảy đột nhiên nói với đạo diễn Huỳnh Nga và tôi, má muốn thay đổi cái kết.
Tôi chưa hiểu ý má. Bà nói chậm rãi, như thể bà đã nghiền ngẫm kỹ từ lâu - Ông
Trần Hữu Trang viết tuồng này là để chống Tây mà Tây vẫn phải cho diễn nên cái
kết bắt buộc cô Lựu phải vào chùa. Nay Tây Mỹ gì cũng không còn, nước mình độc
lập, sao lại bắt Lựu vào chùa, sao lại để cô Lựu cúi đầu. Nước mất thì dân chịu
cúi đầu. Nay có nước rồi thì dân phải ngẩng cao đầu mà sống chứ...
Đó là suy nghĩ, là thiết kế đường
dây để mạn phép soạn giả Trần Hữu Trang thay đổi một tình tiết kết tuồng Đời
cô Lựu của thầy tôi; hơn thế là đổi thay một tư thế cho nhân vật, một
tư cách công dân của người nghệ sĩ mà chỉ có bà - người sinh ra đúng vào ngày
30/4 - đã chọn cho mình và một thế hệ học trò của mình cái tư cách nghệ sĩ đáng
kính.
Năm 1992, tôi về nước trong kỳ nghỉ hè, gặp đạo diễn Nguyễn Hồng
Phúc, ngồi trò chuyện cùng NSND - họa sĩ Lương Đống, để cuối cùng anh em gặp
nhau ở Diễn kịch một mình của tác giả Lê Duy Hạnh. Tôi nhớ,
giữa phòng khách của biệt thự ở đường Phạm Ngọc Thạch, tôi diễn ngay trên mặt
bàn đá có đường kính 2m, diễn trước những khán giả đầu tiên của vở kịch một
người này như Trịnh Công Sơn, họa sĩ Chóe, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, thầy Lê Trí
Viễn, Lê Tiến Dũng...
Những lời thoại, ở thời điểm ấy,
mang sức nặng ngàn cân: “Những ngày đó, tình dân nghĩa chúa sao mà cao đẹp
quá. Còn bây giờ, lẽ nào vinh hoa phú quý đã che mờ hết những ngày gian khổ năm
xưa. Trước kia, trong cuộc chiến đấu một mất một còn để giữ gìn đất nước, chúa
thượng còn nằm gai nếm mật với dân, chấp nhận hy sinh gian khổ về mình, nên
muôn dân dù mất mát, đau thương chết chóc, đói nghèo vẫn bền gan vững chí. Giờ
đây chúa thượng thích ăn sung mặc sướng, thích lời ngon ngọt êm tai, trong khi
dân vẫn còn đang chịu hàm oan, bất công, lầm than, khổ ải...”.
Những lời gan ruột ấy đâu phải chỉ
viết để “mua vui” cho vài trống canh, nó thức tỉnh bên ngoài tấm màn sân khấu
về vận nước, về lòng dân. Như trong Bình Tây Đại Nguyên Soái, thầy
tôi - NSND Nguyễn Thành Châu đã viết: “Ta đánh giặc không phải vì vua mà giữ
nước. Nước của dân, ta giữ nước là vì dân. Trong chiêm bao Đức Quốc Tổ đã ân
cần, bảo phải đánh, đánh mới còn, dân khỏi phải kiếp trâu cày ngựa cỡi...”.
Tất cả đều là sự lựa chọn, lựa chọn
một hướng đi và cách sinh tồn, lựa chọn tư thế và cũng là tư cách người nghệ
sĩ. Sự ở lại - sau 43 năm, đã không còn định vị ở một không gian nhất định, là
Sài Gòn; mà trước hay sau, chỉ có một nơi chốn để bạn dù có ra đi hay ở lại,
hay trở về rồi lại ra đi thì bạn mãi mãi thuộc về, là của nơi ấy, nơi thấm đẫm
tình dân tộc, vời vợi chuyện nước non...
NSND Bạch Tuyết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét